Khám phá Đền chùa Hòa Liễu hơn “trăm tuổi” giữa lòng Kiến Thụy

Đền chùa Hòa Liễu là điểm du lịch tâm linh nổi tiếng được rất nhiều người dân địa phương, du khách thập phương lựa chọn là điểm đến mỗi khi đến Kiến Thụy. Sự cổ kính và những câu chuyện về lịch sử nơi đây được gìn giữ qua hơn trăm năm, tạo thành sức hút đặc biệt cho điểm đến này.
Đền chùa Hòa Liễu nằm giữa cánh đồng xã Thuận Thiên (Kiến Thụy), với vị trí tiếp nối vào xã An Thái (An Lão), nhìn từ xa cụm di tích đền chùa Hòa Liễu đã hiển hiện như một trung tâm tín ngưỡng. Hoà Liễu là tên gọi của một trong số thôn làng của xã Thuận Thiên gồm Úc Gián, Xuân Úc và Hoà Liễu. Về tên gọi Hoà Liễu, thuở khai hoang lập lên trang ấp, làng Hòa Liễu có tên là làng Lan Niểu. Các cụ cao niên của làng giải thích sở dĩ có tên gọi này là do có nhiều chim chóc tụ về làng đậu trên cành lan hương thơm dịu mát, ngụ ý là nơi đất lành chim đậu. Lan Niểu ấp sau này được đổi thành Hoà Liễu như ngày nay. Cả quần thể đền và chùa đều tọa lạc trong cùng một khuôn viên, sau nhiều lần trùng tu, nhìn bề ngoài cụm di tích có dáng dấp của phong cách kiến trúc hơi lạ so với truyền thống khu vực đồng bằng Bắc Bộ.

Ảnh: nguồn Internet.
Đền Hòa Liễu là nơi tôn thờ bà Thái Hoàng – Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, một nhân vật lịch sử thời Mạc. Bà được tôn vinh với những đóng góp đáng kể trong việc phát triển và xây dựng làng xã, cũng như trong việc thực hiện các công việc thiện nguyện và giúp đỡ nhân dân. Theo thế phả của gia tộc Mạc, bà Thái Hoàng Thái Hậu thuộc dòng họ Vũ và là vợ của vua Mạc Đăng Dung. Tên tuổi của bà đã trở nên vô cùng uyên bác qua cả ba triều đại của vương triều Mạc. Sinh ra tại làng Trà Phương, thuộc huyện Nghi Dương, tỉnh Hải Dương ngày nay, nơi hiện tại được biết đến là thôn Trà Phương, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy.
Đền Hoà Liễu được thiết kế theo kiểu kiến trúc chữ nhị, với tiền sảnh và hậu cung tách biệt bởi một gian hai dĩ, nổi bật với mái cong được làm từ gỗ lim tinh tế. Không gian của hậu cung đền tràn ngập sự trang nghiêm và tôn kính, với những hòm thờ lộng lẫy được làm từ vàng son. Dù tiền sảnh đã được tái xây mới trong thế kỷ 20, nhưng không gian của hậu cung vẫn giữ được vẻ đẹp kinh điển với kiến trúc chồng diêm hai tầng, sáu mái, và vẻ đơn giản nhưng uy nghi trong trang trí.

Ảnh: nguồn Internet.
Trong khu di tích của đền và chùa Hoà Liễu ở xã Thuận Thiên, các di vật lịch sử được bảo tồn và gìn giữ kỹ lưỡng, đặc biệt là những tác phẩm nghệ thuật từ thời kỳ Mạc. Những tác phẩm này thường được chế tác từ đá, bao gồm pho Tam Thế, hai pho tượng Phật Quan Thế Âm và Đại Thế Chí, cùng với đôi sấu đá trước của chùa. Tại đền, bạn cũng có thể tìm thấy các di vật đặc trưng của thời kỳ Mạc, như tấm bia đá Thiên Phúc Tự, được xây dựng vào thời vua Mạc Phúc Nguyên, niên hiệu Quang Bảo năm 1561, cũng như tượng bà Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn và cột đá “thạch trụ”.
Tượng Tam Thế có kích thước gần bằng người thật, được chia thành hai phần. Phần trên đại diện cho Usnisa – tướng thứ 32 của Phật, biểu tượng của sự giác ngộ và trí tuệ. “Nhục kế” bao bọc “nhục kế” và đầu tượng là những sợi tóc xoắn ốc, tượng trưng cho tính sang quý và trí tuệ sâu sắc của nhà Phật. Khuôn mặt với các đặc điểm nữ tính như tai dài, mắt cong, sống mũi thẳng và một nụ cười hàm tiếu, tạo nên vẻ nhẹ nhàng và đầy đủ. Sự tươi tắn và tự do trong tạo hình của tượng càng làm nổi bật vẻ đẹp của người phụ nữ, thể hiện sự gần gũi với tinh thần dân gian.

Ảnh: nguồn Internet.

Tượng Thái Hoàng Thái Hậu được đặt trên một đài sen hình chữ nhật, được cấu thành từ hai thớt chồng lên nhau. Thớt trên có hai lớp cánh ngửa, trong khi thớt dưới có hai lớp cánh úp, tạo ra một mặt cắt đứng hình chữ “Công”. Đài sen này nằm trên một trụ đá, có tiết diện vuông với mỗi cạnh khoảng 30 cm. Trụ đá dài khoảng 3m, nổi lên từ một giếng hình tròn. Xung quanh bệ giếng, có bao bệ vuông cao khoảng 1,4m. Tượng phù điêu được đặt trên mặt phẳng của bệ xây, và trên thân cột đá được khắc dòng chữ Hán: “Vân Tiên động tối linh từ”. Ý nghĩa của cột đá dưới giếng và đài sen này có thể không còn được biết đến rõ ràng, nhưng thông qua nghiên cứu và quan sát các di tích tương tự ở các tỉnh Bắc Ninh, Thái Bình và Hà Nội, chúng tôi cho rằng giếng và cột trụ có thể đóng vai trò là cầu nối giữa âm và dương, truyền tải năng lượng và sức sống của vũ trụ, mang lại sức mạnh và sự thông thái cho con người.

Tượng Thái Hoàng Thái Hậu họ Vũ
Ảnh: Đỗ Xuân Trung.
Di tích chùa Hoà Liễu đồng thời cũng là nơi diễn ra lễ hội Minh Thệ – một trong những lễ hội nổi tiếng của vùng. Vào thế kỷ XVI, Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, vợ của vị vua Mạc Đăng Dung, đã đến và lập ấp Lan Niểu (hiện thôn Hoà Liễu). Bà tự bỏ tiền và kêu gọi sự hỗ trợ từ các quan lại triều Mạc để tái thiết chùa cổ tại địa phương. Thái Hoàng Thái Hậu cùng cộng đồng dân làng đã thành lập lễ hội Minh Thệ, trong đó quy định các nguyên tắc đạo đức và hành vi cho mọi thành viên của cộng đồng. Do những công đức của Thái Hoàng Thái Hậu, dân làng đã xây dựng đền tạc tượng để tri ân. Lễ hội Minh Thệ được tổ chức từ ngày 14-16 tháng giêng âm lịch hàng năm.

Chủ lễ đọc Hịch văn Minh thề – Ảnh : nguồn Internet.
Sau các nghi lễ tế thần, dân làng và quan khách tập trung ở sân đình để tham gia lễ hội. Họ hình thành vòng tròn xung quanh đài thề, đặt bàn thờ nhỏ trên đó. Chủ lễ, đại diện của chức sắc và cộng đồng, đọc bản thề và mọi người cam kết tuân thủ. Họ cùng hô vang “y như miệng thề”, sau đó chủ lễ tuyên bố quyết tâm. Tiếp theo là lễ cắt tiết gà, gà được hoà vào rượu để mọi người cùng uống, biểu thị sự cam kết với lời thề. Hội Minh Thệ thể hiện văn hóa và giáo dục đạo lý, truyền đạt giá trị và lòng trung thành với “Miệng Thề”.
Năm 1993, di tích đền chùa Hòa Liễu ở xã Thuận Thiên đã được công nhận là Di tích Quốc gia, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc bảo tồn và quảng bá văn hóa lịch sử của địa phương. Khi đến Hải Phòng, hãy dành thời gian thăm viếng đền chùa Hòa Liễu, tại đây có thể tìm thấy sự thanh bình và yên tĩnh, giúp con người thoát khỏi những căng thẳng và lo lắng của cuộc sống hối hả. Đồng thời, cũng sẽ được khám phá những giá trị văn hóa, truyền thống đặc sắc mà nơi này mang lại.

Mỹ Tâm